Ảnh hưởng tới văn hóa Phật giáo

Việt Nam

Những danh từ chuyên môn của Phật giáo đã biến thành văn hóa người Việt qua ngôn ngữ của người bình dân Việt Nam thường sử dụng, đã được truyền bá rộng rãi trong dân gian và trở nên phổ biến trong văn hóa người Việt.

  • Bụt chính là phiên âm của từ Buddha trong tiếng Phạn, chính là chỉ Đức Phật. Trong truyện cổ tích Việt Nam thường thấy nhân vật Bụt xuất hiện để cứu giúp người lương thiện, trừng trị kẻ ác.
  • Khi khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, người Việt thường mở đầu bằng câu "Con nam mô A Di Đà Phật". A Di Đà Phật là vị Phật cai quản cõi Tây phương cực lạc, người Việt khấn như vậy để thể hiện mong muốn vong linh của tổ tiên được Phật A Di Đà tiếp dẫn, đưa tới tái sinh ở cõi Phật thanh tịnh.
  • Người Việt có lễ xá tội vong nhân, Vu Lan báo hiếu xuất phát từ một điển tích trong Phật giáo, đó là việc tôn giả Mục Kiền Liên (1 trong 2 đại đệ tử của Phật Thích Ca) đã báo hiếu bằng việc khẩn cầu công đức của chư Tăng các phương để cứu mẹ ra khỏi kiếp ngạ quỷ.
  • Người Việt có câu ca dao "Dẫu xây chín bậc phù đồ (bảo tháp), chẳng bằng làm phúc cứu cho một người" - hàm ý rằng cứu một mạng người tạo ra công đức còn hơn cả xây bảo tháp thờ Phật, câu nói thể hiện triết lý của đạo Phật là "phổ độ chúng sinh", coi trọng việc hành động theo lời Phật dạy hơn là chỉ phô trương hình thức.
  • Con người mỗi khi thấy những ai bất hạnh, bị hoạn nạn đau khổ thì liền tỏ lòng thương xót và thốt lên câu: Tội nghiệp quá!... Hai chữ tội nghiệp là danh từ chuyên môn của Phật giáo với ý nghĩa chỉ cho nghiệp báo tội ác đã định. Cụm từ "tội nghiệp quá!" là câu nói của người bình dân hàm súc hai ý nghĩa: Một là phán định tội lỗi, và hai là tâm linh chia sẻ. Phán định tội lỗi, nghĩa là người này đã gây nghiệp tội ác quá nặng trong quá khứ cho nên giờ đây phải chịu quả báo khổ đau không thể trốn tránh. Tâm tình chia sẻ, nghĩa là thấy họ hoạn nạn đau khổ thì bộc lộ tâm tình thương hại để san sớt phần nào niềm đau nỗi khổ của họ.
  • Người bình dân muốn diễn tả số lượng người ta quá đông đảo hoặc số lượng vật gì quá nhiều thì liền dùng câu "Hằng hà sa số" để tỏ bày. Hằng hà sa số là danh từ chuyên môn của Phật giáo với ý nghĩa là số nhiều như cát sông Hằng. Sông Hằng (sông Gange) là chỉ cho một trong hai con sông lớn nhất của Ấn Độ. Ấn Độ có hai con sông nổi tiếng thế giới là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange) và hai con sông này khai nguồn tài nguyên sức sống cho toàn thể dân tộc Ấn Độ phát triển và tồn tại. Trong các kinh luận, Phật giáo cũng thường dùng những ngôn từ “Hằng hà sa số” nhằm để nói lên số lượng quá nhiều không thể đếm được
  • Khi thấy một số người đi lang thang khắp nơi, sống rày đây mai đó, không chịu dừng chân một chỗ nào lâu dài, người bình dân thường gắn cho họ một ngôn từ đơn giản là kẻ sống Ta bà thế giới. Ta bà thế giới là ngôn từ chuyên môn của Phật giáo nhằm chỉ cho thế giới mà loài người đang sống, bao gồm cả sáu cõi luân hồi chúng sanh sống chung lẫn lộn với nhau, gồm cõi địa Ngục, cõi Ngạ Quỷ, cõi Súc Sanh, cõi loài người, các cõi Trời. 6 cõi nói trên có một danh từ gọi chung là "cõi Dục Giới", bởi chúng sinh ở 6 cõi này bị chi phối mạnh mẽ bởi các Dục (các ham muốn của bản thân). Tuổi thọ của chúng sinh ở cõi Dục giới đa phần là ngắn ngủi, mỗi kiếp sống thường chỉ là tạm bợ rồi lại phải chết và luân hồi sang kiếp sống khác, hạnh phúc thì ít mà khổ đau thì nhiều. Ngôn từ "Ta Bà Thế giới" của Phật giáo đã được người Việt Nam tiếp nhận trở thành văn hóa người Việt, dùng để chỉ cõi trần của con người.

Trung Quốc

Ảnh hưởng rõ ràng nhất của Phật giáo nguyên thủy từ Ấn Độ khi đến Trung Quốc đã phân tách thành các dòng lớn, mang màu sắc văn hóa nước này. Phật giáo Trung Quốc chủ yếu là Phật giáo Bắc tông Hán truyền. Ở những tỉnh như Tây Tạng, Tứ Xuyên, Thanh Hải thì có hệ thống Tạng truyền. Tại tỉnh Vân Nam có hệ thống Phật giáo Nam truyền. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định rằng Phật giáo rất phù hợp cho sự phát triển về kinh tế - xã hội và văn hóa của đất nước Trung Quốc. Với sách lược là phải khôi phục toàn bộ văn hóa truyền thống của Trung Quốc, trong đó Phật giáo cũng được khôi phục và phát triển, đã giúp nhu cầu về tín ngưỡng cũng như tu học của con người trong xã hội Trung Quốc ngày càng cao, và do vậy, Phật giáo đã ứng dụng các tiện ích hiện đại để đáp ứng nhu cầu đó một cách trọn vẹn[21].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Phật giáo http://media.johnwiley.com.au/product_data/excerpt... http://www.weiwuwei.8k.com/ http://www.berzinarchives.com/islam/history_afghan... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/83184 http://www.daophatngaynay.com/vn/kinh-dien/van-hoc... http://www.daophatngaynay.com/vn/phat-phap/giao-ph... http://books.google.com/books?id=GEKd4iqH3C0C&dq=h... http://books.google.com/books?id=v0Rpvycf1t0C http://www.quangduc.com/lichsu/72bophai02.html http://www.saigon.com/~anson/ebud/mfneng/mind0.htm